------------
BÀI ĐỌC I ------------
Lời
Chúa trích trong thư của Thánh Phao-lô Tông đồ gởi tín hữu Ga-lát
(22) Thật vậy,
có lời chép rằng: ông Áp-ra-ham có hai người con, mẹ của một người là nô lệ, mẹ
của người kia là tự do.
(23) Nhưng con của
người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự do thì
sinh ra nhờ lời hứa.
(24) Truyện đó
ngụ ý thế này: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi
Si-nai, thì sinh ra nô lệ: đó là Ha-gar.
(25) Ha-gar chỉ
núi Si-nai trong miền Ả-rập, và tương đương với Giê-ru-sa-lem ngày nay, vì
thành này cùng với các con đều là nô lệ.
(26) Còn Giê-ru-sa-lem
thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta.
(27) Thật vậy,
có lời chép:
Reo mừng lên, hỡi
người phụ nữ son sẻ, không sinh con;
hãy bật tiếng
reo hò mừng vui, hỡi ai chưa một lần chuyển dạ,
vì con của phụ nữ
bị bỏ rơi thì đông hơn con của phụ nữ có chồng!
(28) Thưa anh
em, như I-sa-ác, anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa.
(29) Nhưng cũng
như thuở ấy đứa con sinh ra theo luật tự nhiên đã ngược đãi đứa con sinh ra
theo thần khí, thì bây giờ cũng vậy.
(30) Thế nhưng
Kinh Thánh nói gì? Kinh Thánh nói: Tống cổ người nô lệ và con của nó đi, vì con
của nô lệ không đời nào được thừa kế gia tài cùng với con của người tự do.
(31) Ấy vậy,
thưa anh em, chúng ta không phải là con của một người nô lệ, nhưng là con của
người tự do.
(1) Chính để
chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững,
đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa. (Gl 4, 22-24. 26-27. 31-5, 1)
------------
PHÚC ÂM ------------
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca
(29) Khi dân
chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: "Thế hệ này là một thế hệ
gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu
lạ ông Giô-na.
(30) Quả thật,
ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng
sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.
(31) Trong cuộc
Phán Xét, Nữ Hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này
và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của
vua Sô-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sô-lô-môn nữa.
(32) Trong cuộc
Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ,
vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông
Giô-na nữa. (Lc 11, 29-32)
--------------------------------------------------------------------------------
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa.
Trong chương
trình Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài đã chọn Dân Do-Thái ngay từ đầu và ký kết với
họ một giao ước trên Núi Sinai. Theo giao ước cũ này, nếu họ giữ cẩn thận các
giới răn Chúa truyền thì Ngài sẽ bảo vệ họ, và họ sẽ là Dân Riêng của Ngài.
Nhưng như lịch sử đã chứng minh, họ đã không tôn trọng giao ước và Thiên Chúa
đã để mặc họ cho kẻ thù phương Bắc xâm lấn và bắt làm nô lệ. Tuy nhiên, vì lòng
thương xót, Thiên Chúa đã ký với tòan thể con người (cả Do-Thái và Dân Ngọai) một
giao ước mới. Theo giao ước mới này, con người sẽ được cứu độ: không bằng việc
giữ cẩn thận các Lề Luật (việc không thể cho con người), nhưng bằng niềm tin
vào Chúa Kitô và ân sủng của Thánh Thần. Dẫu vậy, nhiều người Do-Thái vẫn ngoan
cố tin vào giao ước cũ và bắt Dân Ngọai cũng phải làm như họ. Trong Bài đọc I,
thánh Phaolô dùng Cựu Ước để chứng minh giao ước mới đã được báo trước để thay
thế giao ước cũ qua câu truyện của Sarah và Hagar. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cảnh
cáo người Do-Thái đừng nên khinh thường Dân Ngọai. Tuy họ không được hưởng các
đặc quyền như Dân Do-Thái, nhưng họ đã biết tận dụng những gì Chúa ban để học hỏi
và ăn năn xám hối.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
[1] Bài
đọc I: Anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa.
[1.1] Hai giao ước cũ và mới trong chương
trình cứu độ của Thiên Chúa: Thánh Phaolô dùng cách cắt nghĩa Kinh Thánh theo
kiểu lọai suy (allegorical) ở đây: Ông Abraham có hai người con: Isaac và
Ishmael, mẹ của Ishmael là một người là nô lệ (Hagar), mẹ của Isaac là người tự
do (Sarah). Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên (ăn ở giữa
Abraham và Hagar); còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa của Thiên
Chúa với tổ phụ Abraham.
Thánh Phaolô cắt
nghĩa: Truyện đó ngụ ý thế này: Hai người đàn bà là tượng trưng cho hai giao ước.
Giao ước thứ nhất tại núi Si-nai, thì sinh ra nô lệ: đó là Ha-gar. Ha-gar chỉ
núi Si-nai trong miền Ả-rập, và tương đương với Giê-ru-sa-lem ngày nay, vì
thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giê-ru-sa-lem thượng giới thì tự
do: đó là mẹ chúng ta. Thật vậy, có lời chép: Reo mừng lên, hỡi người phụ nữ
son sẻ, không sinh con; hãy bật tiếng reo hò mừng vui, hỡi ai chưa một lần chuyển
dạ, vì con của phụ nữ bị bỏ rơi thì đông hơn con của phụ nữ có chồng!
[1.2]/ Như Isaac, anh em là những người
con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa: “Nhưng cũng như thuở ấy đứa con sinh ra theo
luật tự nhiên đã ngược đãi đứa con sinh ra theo thần khí, thì bây giờ cũng vậy.
Thế nhưng Kinh Thánh nói gì? Kinh Thánh nói: Tống cổ người nô lệ và con của nó
đi, vì con của nô lệ không đời nào được thừa kế gia tài cùng với con của người
tự do.”
Vì thế, giao ước
cũ đã được thay thế bằng giao ước mới; sự nô lệ cho Lề Luật đã được thay thế bằng
sự tự do sống theo Thánh Thần, như thánh Phaolô khuyên các tín hữu của ngài: “Ấy
vậy, thưa anh em, chúng ta không phải là con của một người nô lệ, nhưng là con
của người tự do. Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng
ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.”
[2] Phúc
Âm: Hưởng đặc quyền càng nhiều, bị phán xét càng nặng.
[2.1] Đòi hỏi phép lạ: Người Do-Thái tìm
kiếm phép lạ, và Chúa đã làm nhiều phép lạ giữa họ. Nhưng mục đích của phép lạ
là để khơi dậy niềm tin. Sau khi đã làm nhiều phép lạ mà họ vẫn không tin nên Đức
Giê-su bắt đầu nói: "Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ.
Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Jonah. Quả thật,
ông Jonah đã là một dấu lạ cho dân thành Nineveh thế nào, thì Con Người cũng sẽ
là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.” Tại đây Chúa Giêsu muốn nói: như tiên
tri Jonah đã ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, Chúa Giêsu cũng ở trong mồ 3 ngày 3
đêm như vậy, và sau đó Ngài sẽ sống lại.
[2.2] Cần phản ứng thích đáng khi được
hưởng đặc quyền: Chúa Giêsu đưa ra 2 ví dụ cho người Do-Thái phải suy nghĩ:
[2.2.1] Nữ Hòang Phương Nam: là người đến
với Vua Solomon từ Phi Châu để học sự khôn ngoan của Vua. Thế mà Chúa Giêsu còn
khôn ngoan hơn Vua Solomon đang ở giữa và dạy dỗ họ, họ đã từ chối không nghe
và tin vào Ngài. Vì thế, “trong cuộc Phán Xét, Nữ Hoàng Phương Nam sẽ đứng lên
cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận
cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Solomon; mà Chúa Giêsu còn hơn
vua Solomon nữa.”
[2.2.2] Dân Thành Nineveh: là thành của
Dân Ngọai (Bắc của Iraq hiện giờ). Họ đã sẵn sàng nghe lời giảng dạy của tiên
tri Jonah dù chỉ một lần và đã ăn chay, xức tro, và mặc áo nhặm trở về với
Chúa. Thế mà Chúa Giêsu còn cao trọng hơn tiên tri Jonah đang đứng giữa họ để dạy
dỗ và kêu gọi họ bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại với Thiên Chúa, mà họ vẫn giả
điếc làm ngơ. Vì thế, “trong cuộc Phán Xét, dân thành Nineveh sẽ chỗi dậy cùng
với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Jonah rao
giảng; mà đây thì còn hơn ông Jonah nữa.”
--------------------------------------------------------------------------------
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải
siêng năng học hỏi để nhận ra những đặc quyền mình đang được hưởng. Đừng ngoan
cố như những người Do-Thái, mặc dầu đã được thánh Phaolô chỉ dạy cho là họ
không thể nào được cứu rỗi bằng việc giữ Luật (giao ước cũ), mà chỉ có thể được
cứu độ bằng việc tin vào Chúa Kitô (giao ước mới); thế mà họ cứ ngoan cố trong
niềm tin của họ vào Luật và dạy các tín hữu Galat làm như thế.
- Chúng ta cần
biết nắm lấy cơ hội Thiên Chúa gởi đến trong cuộc đời. Như Nữ Hòang Phương Nam
lặn lội tìm đến để học sự khôn ngoan của Vua Solomon, chúng ta cũng cần chạy đến
với những người rao giảng để học hỏi sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong Kinh
Thánh. Như dân Thành Nineveh đã nghe lời giảng dạy của tiên tri Jonah mà ăn năn
trở lại, chúng ta cũng cần biết nghe lời mời gọi của Mẹ Giáo Hội qua các Mục Tử
để năng kiểm điểm cuộc sống và quay trở về làm hòa cùng Thiên Chúa.
- Nếu không biết
tận dụng các cơ hội của Chúa ban, chúng ta sẽ không có lý do nào để trách Chúa
trong Ngày Phán Xét; vì sẽ có nhiều người tố cáo chúng ta là nếu họ có được những
cơ hội như chúng ta đã có, thì họ đã ăn năn trở lại từ lâu rồi.
************
Viết bởi LM.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
************
copied from
loinhapthe.com
[SUY NIỆM]
Trả lờiXóaTheo nhận xét của thánh Phaolô trong thư gửi giáo hữu Côrintô,
“Người Do Thái đòi hỏi dấu lạ,
còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1, 22).
Có vẻ người Do Thái sính dấu lạ và đòi hỏi dấu lạ để tin.
Đối với họ, dấu lạ là một bảo đảm cho tính chân thực của lời rao giảng.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong mấy năm rao giảng Tin Mừng.
Trừ quỷ và chữa những bệnh nan y là những dấu lạ Ngài hay làm.
Ngài chữa người mù bẩm sinh, người phong, người nhiều năm bất toại.
Ngài hoàn sinh con gái ông Giairô, con trai bà góa thành Nain,
và nhất là cho anh Ladarô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại.
Có những dấu lạ Ngài làm trên thiên nhiên mà chỉ các môn đệ biết,
như bắt bão táp phải lặng yên hay đi trên mặt nước lúc sóng gió.
Cũng có dấu lạ trước mặt cả ngàn người như làm cho bánh hóa nhiều.
Không ai có thể phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ (Ga 11, 47).
Nhưng Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn phô trương.
Ngài cũng không dùng dấu lạ để mua lòng tin của dân chúng.
Dấu lạ của Đức Giêsu không qui về vinh quang hay lợi lộc cho Ngài,
nhưng nhắm đến việc khai mở Nước Thiên Chúa và hạnh phúc nhân loại.
Nhiều lần Ngài thắng được cám dỗ làm dấu lạ.
Ngài đã không biến đá thành bánh để ăn cho no bụng
hay nhảy xuống từ nóc Đền thờ để dân chúng kinh ngạc tung hô.
Ngài cũng không biểu diễn vài dấu lạ trước mặt Hêrôđê để được tha.
Trên thập giá, Ngài đã không đáp lại thách đố của các nhà lãnh đạo.
“Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi!” (Lc 23, 35).
Đức Giêsu đã làm dấu lạ cho người khác, nhưng không làm cho mình.
Ngài không tự cứu lấy mình, nghĩa là không xuống khỏi thập giá.
Hôm nay, chúng ta có thể không mãn nguyện như người Do Thái xưa.
Tuy Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong đời ta,
nhưng, như họ, ta vẫn đòi một dấu lạ đầy ấn tượng từ trời.
Chúng ta muốn một dấu chỉ không thể chối cãi được
để tin thật sự có Thiên Chúa, tin Ngài mạnh hơn sự dữ ở quanh ta.
Nhưng chúng ta quên rằng Thiên Chúa cũng là Đấng ẩn mình,
và quyền năng của Ngài được biểu lộ qua sự bao dung khiêm hạ.
Chúng ta chờ dấu lạ về việc Đức Giêsu hùng mạnh đến giải thoát ta,
nhưng lại quên rằng Ngài cũng thích cùng ta âm thầm chịu đau khổ.
Làm sao tôi nhận ra được những dấu rất lạ mà lại rất đỗi bình thường,
những dấu lạ lớn lao mà nhỏ bé Chúa vẫn làm cho đời tôi?
Làm sao tôi nhận ra được cái bình thường của đời tôi cũng là dấu lạ?
Ngỡ ngàng như trẻ thơ trước những điều mà nhiều người coi là tự nhiên,
tôi dần dần hiểu rằng đời tôi được bao bọc bởi tình yêu là dấu lạ.
Thay vì bôn chôn tìm kiếm và đòi hỏi những điều ngoạn mục, ly kỳ,
tôi khám phá ra Chúa vẫn ở bên tôi trong những điều đơn sơ nhỏ bé.
Xin được ơn sám hối chỉ vì những dấu lạ bình thường Chúa ban cho đời tôi.
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org
[LỜI CẦU NGUYỆN]
Trả lờiXóaCon tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con. Amen.
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org