------------
BÀI ĐỌC I ------------
Lời
Chúa trích sách Xuất hành
(20) Người ngoại
kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều
ở đất Ai-cập. 21 Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp.
(22) Nếu ngươi ức
hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu.
(23) Cơn giận Ta
sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành
goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.
(24) Nếu ngươi
cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi
không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi.
(25) Nếu ngươi
giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước
khi mặt trời lặn.
(26) Nó chỉ có
cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ
nghe nó, vì Ta vốn nhân từ. (Xh 22, 20-26)
------------
BÀI ĐỌC II ------------
Lời
Chúa trích trong thư thứ nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca
(5) Khi chúng
tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà
còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở
với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em;
(6) còn anh em,
anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao
nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban:
(7) bởi vậy anh
em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Ma-cê-đô-ni-a và miền A-kai-a.
(8) Quả thế, từ
nơi anh em, lời Chúa đã vang ra, không những ở Ma-cê-đô-ni-a và A-kai-a, mà đâu
đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi
không cần phải nói gì thêm nữa.
(9) Khi nói về
chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em
đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng
sống, Thiên Chúa thật,
(10) và chờ đợi
Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi
chết, là Đức Giê-su, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến. (I Tx 1,
5-10)
------------
PHÚC ÂM ------------
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu
(34) Khi nghe
tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người
Pha-ri-sêu họp nhau lại.
(35) Rồi một người
thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng:
(36) "Thưa
Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất? "
(37) Đức Giê-su
đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn và hết trí khôn ngươi.
(38) Đó là điều
răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.
(39) Còn điều
răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình.
(40) Tất cả Luật
Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22, 34-40)
--------------------------------------------------------------------------------
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa Yêu Người
- Có quá nhiều lựa
chọn hay phải giữ quá nhiều luật lệ làm chúng ta dễ bị hoang mang lẫn lộn.
Chúng ta không biết phải lựa chọn làm sao, không biết phân biệt cái gì chính yếu,
cái gì phụ thuộc. Thật là hữu ích khi có người biết rành rẽ lựa chọn hay chỉ
cho chúng ta những điều chính yếu và làm sao để thi hành những điều chính yếu
đó.
- Trong Phúc Âm
hôm nay, Chúa tóm gọn Lề Luật trong hai giới răn, và gọn hơn nữa trong 4 chữ: Mến
Chúa Yêu Người.
- Trong Bài đọc
I, Sách Xuất Hành dạy cho chúng ta những bài học cụ thể phải yêu người làm sao
qua những gì chúng ta phải làm cho khách ngọai kiều, cô nhi quả phụ, và những
người nghèo.
- Trong Bài đọc
II, Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy cách phải dạy “Mến Chúa Yêu Người” làm
sao cho có hiệu quả.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
[1] Bài
đọc I: Chúa yêu thương kẻ khốn cùng.
Tại sao Chúa dạy
con người phải yêu thương người cùng khổ? Câu trả lời đơn giản là vì họ cũng là
con của Thiên Chúa; bổn phận của Cha là phải che chở và bảo vệ con cái mình.
Hơn nữa, mọi người đều là con Thiên Chúa; và vì thế, mọi người đều là anh chị
em với nhau trong gia đình Thiên Chúa. Sách Xuất Hành cho chúng ta những ví dụ
cụ thể phải yêu người làm sao:
(1) Khách ngoại
kiều: là những người đến từ các nước khác, không phải là dân bản xứ. Ví dụ, người
Việt Nam cư ngụ tại Canada hay Hoa-Kỳ. Khách ngọai kiều phải chịu rất nhiều thiệt
thòi về ngôn ngữ, tài chánh, quyền lợi … Chúa dạy: “Các ngươi không được ngược
đãi và áp bức họ, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-Cập.” Người Việt-Nam
chúng ta cũng là dân di cư như những người Do-Thái, chúng ta biết phải khổ cực
thế nào trong những ngày tháng đầu tiên tỵ nạn nơi đất khách quê người. Vì thế,
chúng ta không được kỳ thị những người tới sau hay những khách ngọai kiều khác.
Chúng ta có bổn phận phải giúp họ ổn định cuộc sống vì chúng ta cũng đã được giúp
đỡ để ổn định.
(2) Mẹ goá con
côi: là những người vợ không có chồng và những đứa con không có cha. Những người
này phải chịu rất nhiều thiệt hại: Người vợ góa phải chu tòan 2 bổn phận của mẹ
và của cha, vừa phải làm việc kiếm tiền vừa phải lo lắng mọi sự trong gia đình.
Đứa con côi cũng phải chịu thiệt hại không kém, lẽ ra phải được hưởng tình yêu
và sự săn sóc của cả cha lẫn mẹ, giờ đây chúng chỉ còn người mẹ phải bươn chải
kiếm ăn, không còn thời giờ nhiều để dạy dỗ chúng. Đó là lý do tại sao Chúa dạy:
“Các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ
nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các
ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi
cút.”
(3) Người nghèo:
là những người không có đủ tiền để sinh sống, không có nhà để ở, không có lương
thực để ăn … Thái độ chúng ta cần tránh khi giúp đỡ người nghèo là kết tội họ
lười biếng không chịu làm việc, và lấy tiền xin được đi hút hay say xỉn. Chúng
ta phải hiểu rằng nếu là một người bình thường, không ai thích phải ăn xin hay
vô gia cư; nhưng cuộc sống có nhiều bất ngờ mà họ phải rơi vào tình trạng đó.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là giúp đỡ họ, còn họ dùng tiền của chúng ta vào
việc gì, chúng ta không có quyền phán đóan. Sách Xuất Hành dạy cho chúng ta ít
điều cụ thể để giúp người lâm cảnh túng thiếu:
- “Nếu ngươi cho
một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không
được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi.” Khi người nghèo phải đi
vay nợ để sinh sống là họ đã hết tiền; nếu chúng ta bắt họ phải trả lời thì họ
lấy đâu mà trả. Nếu họ trả được vốn là họ đã cố gắng lắm rồi.
- “Nếu ngươi giữ
áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt
trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó
mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.” Cầm đồ để mượn tiền là phương
thế rất phổ thông xưa cũng như nay. Nếu cầm những đồ không phải dùng hằng ngày
thì chủ nợ có quyền giữ đồ cầm; nhưng nếu là những đồ phải dùng hằng ngày như
áo chòang để che thân cho ấm để ngủ, chủ nợ phải trả lại cho người cầm đồ trước
khi mặt trời lặn.
[2] Bài
đọc II: Lòng mến Chúa và yêu người của các tín hữu Thessalonica
[2.1] Thánh Phaolô dạy và làm gương cho
các tín hữu Thessalonica: Không ai có thể cho cái mình không có. Trước khi đi
rao giảng cho dân thành Thessalonica, Thánh Phaolô đã được thấm nhuần đạo lý của
Tin Mừng và tình yêu của Thiên Chúa đến độ ngài ao ước cho tất cả mọi người
cũng được hiểu biết Tin Mừng và có được tình yêu Thiên Chúa như ngài. Ngài tâm
sự với các tín hữu: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải
chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác
tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích
cho anh em.”
Để thành công
trong việc rao giảng, Thánh Phaolô nói không phải chỉ bằng lời, nhưng còn có
quyền năng của Thánh Thần, và sự xác tín sâu xa của người rao giảng biểu lộ qua
cách sống. Chính những điều này đã để lại ấn tượng sâu xa trên người nghe và
giúp họ hóan cải và tin vào Tin Mừng: “Còn anh em, anh em đã bắt chước chúng
tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm
vui do Thánh Thần ban.”
[2.2] Các tín hữu làm gương cho mọi người
bằng cuộc sống mến Chúa yêu người: Những lời giảng dạy và cuộc sống nhân chứng
của Thánh Phaolô đã hóan cải các tín hữu Thessalonica và đào tạo họ trở nên những
chứng nhân sống động cho người khác. Thánh Phaolô nhận định: “Anh em đã nên
gương cho mọi tín hữu ở miền Macêđônia và miền Akaia. Quả thế, từ nơi anh em, lời
Chúa đã vang ra, không những ở Macêđônia và Akaia, mà đâu đâu người ta cũng
nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải
nói gì thêm nữa.”
Rao giảng Tin Mừng
không phải là để cho đi một số những kiến thức về Thiên Chúa, nhưng là để cho
đi cả một niềm tin và tình yêu của người rao giảng. Phải làm sao để những gì đã
họat động nơi người rao giảng cũng sẽ họat động nơi người nghe; để giúp họ tiếp
tục rao giảng và làm chứng nhân sống động cho Tin Mừng. Điều này đã được thể hiện
sống động nơi Thánh Phaolô và các tín hữu của ngài: “Khi nói với chúng tôi, người
ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng
mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa
thật.”
[3] Phúc
Âm: Mến Chúa Yêu Người là 2 giới răn quan trọng nhất.
[3.1] Điều răn nào là điều răn trọng nhất?
Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sa-đốc phải câm miệng, những người
Pharisêu họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử
Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”
Đức Giê-su đáp:
(1) Mến Chúa (Dt
6:5): “ Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.”
Người Do-Thái không xa lạ gì với câu trả lời này, vì đi chỗ nào họ cũng nhìn thấy
câu này: thẻ kinh họ đeo trên trán hay đeo trên hai tay, trên cửa ra vào, là những
lời dạy dỗ đầu tiên và liên tục nhắc nhở cho con cái. Vấn đề Chúa đặt ra không ở
chỗ họ có biết hay không, nhưng ở chỗ họ thể hiện tình yêu Chúa thế nào trong
cuộc sống!
(2) Yêu người
(Lv 19:18): “ Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình.” Điều răn thứ hai cũng đã được ghi chép trong
Sách Levi 19:18. Cái sáng tạo của Chúa Giêsu là lấy hai giới răn đã được ghi
chép ở hai nơi, Levi và Đệ Nhị Luật, đưa về một nơi và tuyên bố là hai giới răn
quan trọng nhất. Cũng như giới răn thứ nhất, vấn đề Chúa đặt ra không ở chỗ họ
có biết hay không, nhưng ở chỗ họ thể hiện tình yêu Chúa thế nào trong cuộc sống!
Và Chúa kết luận:
“Tất cả Luật Môsê và các sách Ngôn Sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” Chúng
ta có thể thêm vào mà không sợ sai: các Sách Tân Ước cũng đều tùy thuộc vào 2
điều răn này. Một khi con người đã thấu hiểu tình yêu Thiên Chúa qua những gì
Ngài đã làm cho con người, và loan truyền tình yêu này cho tha nhân qua việc
rao giảng Tin Mừng và qua chính cuộc sống chứng nhân, họ đã đắc đạo và không
thiếu gì nữa.
--------------------------------------------------------------------------------
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mến Chúa Yêu
Người phải trở nên cái địa bàn cho mỗi người chúng ta trong khu rừng của thế giới
với bao nhiêu cám dỗ và học thuyết làm cho con người lẫn lộn.
- Mến Chúa Yêu
Người không phải là lý thuyết xuông hay những lời chóp lưỡi đầu môi, nhưng phải
biểu lộ qua lời rao giảng và cuộc sống chứng nhân. Trong khi rao giảng Tin Mừng,
chúng ta phải làm sao để những gì đã họat động nơi chúng ta cũng sẽ họat động
nơi người khác.
- Mến Chúa Yêu
Người phải được biểu lộ cách cụ thể nơi những khách ngọai kiều, nơi mẹ góa con
côi, và nơi những người nghèo không có phương tiện sinh sống.
************
Viết bởi LM.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
************
copied from
loinhapthe.com
[SUY NIỆM]
Trả lờiXóaTheo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org
[LỜI CẦU NGUYỆN]
Trả lờiXóaCon đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa.
(Thánh Âu-Tinh)
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org