------------
BÀI ĐỌC I ------------
Lời
Chúa trích trong thư của Thánh Phao-lô Tông đồ gởi tín hữu Ga-lát
(6) Tôi lấy làm ngạc nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng
đã kêu gọi anh em nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, để theo một Tin Mừng khác.
(7) Không có Tin Mừng nào khác đâu, mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em,
và muốn làm xáo trộn Tin Mừng của Đức Ki-tô đó thôi.
(8) Nhưng nếu có ai, kể cả chúng tôi, hoặc một thiên thần nào từ trời xuống,
loan báo cho anh em Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh
em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi!
(9) Như tôi đã nói, và nay tôi xin nói lại: nếu có ai loan báo cho anh em
một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ
kẻ ấy đi!
(10) Vậy, giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên
Chúa? Phải chăng tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp
lòng người đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Ki-tô.
(11) Thật vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi
loan báo không phải là do loài người.
(12) Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng
ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô đã mặc khải. (Gl 1, 6-12)
------------
PHÚC ÂM ------------
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca
(25) Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người
rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
(26) Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?"
(27) Ông ấy thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến
người thân cận như chính mình."
(28) Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là
sẽ được sống."
(29) Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức
Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?"
(30) Đức Giê-su đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống
Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ
tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết.
(31) Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy
người này, ông tránh qua bên kia mà đi.
(32) Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh
qua bên kia mà đi.
(33) Nhưng một người Sa-ma-ri-a kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy,
cũng thấy, và chạnh lòng thương.
(34) Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và
băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn
sóc.
(35) Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói:
"Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về,
chính tôi sẽ hoàn lại bác."
(36) Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận
với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?"
(37) Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương
xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng
hãy làm như vậy." (Lc 10, 25-37)
--------------------------------------------------------------------------------
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng đích
thực
Con người thường hay lầm lẫn giữa cái đích thực với cái giả mạo và ngược
lại. Để khỏi bị lầm lẫn, con người cần phải học hỏi và nhiều khi phải trả giá đắt
qua kinh nghiệm mới có thể phân biệt giữa thực và giả. Trong Bài đọc I, cộng
đòan tín hữu ở Galat lầm lẫn vì họ tin có nhiều Tin Mừng khác nhau; thánh
Phaolô chỉ cho họ thấy đâu là Tin Mừng đích thực. Trong Phúc Âm, thầy thông luật
tuy có biết phải làm gì để được sự sống đời đời nhưng không biết ai là người thân
cận để giúp họ.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
[1] Bài đọc I: Chỉ có một Tin Mừng đích thực.
Điểm căn bản trong Thư gởi tín hữu Galat là Thiên Chúa trao ban ân sủng
cách nhưng không cho con người. Thánh Phaolô xác tín rằng con người không thể
làm bất cứ việc gì để xứng đáng được hưởng tình yêu Thiên Chúa. Chỉ có một điều
con người có thể làm là đặt mình hòan tòan dưới lòng thương xót Chúa qua sự biểu
tỏ của niềm tin. Điều quan trọng không phải ở chỗ con người đã làm gì nhưng ở
chỗ Thiên Chúa đã làm cho con người.
[1.1] Chỉ có một Tin Mừng đích thực được mặc khải qua Đức Kitô.
Sau khi thánh Phaolô đã rao giảng Tin Mừng và thành lập cộng đòan Galat, có những
người đến sau ngài đã rao truyền một thứ Tin Mừng theo kiểu của Do-Thái. Họ rao
truyền: Nếu con người muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, con người phải chịu cắt bì
và giữ tất cả các luật lệ như người Do-Thái. Theo họ, con người có thể kiếm điểm
với Thiên Chúa qua việc giữ cẩn thận các luật lệ. Thánh Phaolô sững sờ khi thấy
niềm tin như thế nơi cộng đòan của ngài. Ngài viết cho họ: “Tôi lấy làm ngạc
nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi anh em nhờ ân
sủng của Đức Kitô, để theo một Tin Mừng khác. Không có Tin Mừng nào khác đâu,
mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin Mừng của Đức Kitô
đó thôi.”
[1.2] Sự kiêu ngạo và ghen tị làm con người phát minh ra một Tin Mừng
khác: Những đối thủ của thánh Phaolô tố cáo: sở dĩ ngài đã loan báo một Tin Mừng
không cần giữ luật là để làm đẹp lòng các tín hữu vì họ không thích bị ràng buộc
bởi luật lệ. Ngài phản đối : Nếu việc giữ luật đủ để con người được hưởng ơn cứu
độ thì việc giáng trần và chịu chết của Chúa Kitô là điều không cần thiết; và
Tin Mừng ngài rao giảng không có lý do để tồn tại. Nhưng Đức Kitô thực sự đã chết
cho con người; điều này chứng minh Lề Luật không đủ để mang lại ơn cứu độ.
Thánh Phaolô cũng phản đối lời tố cáo ngài muốn làm đẹp lòng các tín hữu: “Vậy,
giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên Chúa? Phải chăng
tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp lòng người đời,
thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Kitô.” Ngài đã mang những vết thương của
Chúa Kitô trên thân thể như người nô lệ mang tên của chủ; và ngài chỉ trung
thành và làm đẹp lòng Đức Kitô mà thôi.
[1.3] Tin Mừng đích thực là do Chúa Kitô mặc khải: Thánh Phaolô nhắc
đi nhắc lại cho mọi người biết: tuy ngài không thuộc về Nhóm Mười Hai, nhưng
ngài được sai đi trực tiếp từ Chúa Kitô Phục Sinh đến các Dân Ngọai, và Tin Mừng
ngài rao giảng không do lòai người truyền lại cho ngài, nhưng được chính Chúa
Kitô Phục Sinh mặc khải.
[2] Phúc Âm: Ai là người thân cận của tôi?
[2.1] Phải làm gì để được sự sống đời đời? Đây là câu hỏi rất quan
trọng và thực tế của cuộc đời, nhưng người hỏi là thầy thông luật: tuy ông đã
biết câu trả lời nhưng vẫn hỏi để thử Chúa Giêsu. Thay vì cho ông câu trả lời,
Chúa Giêsu hỏi lại ông: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Ông
ấy thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi (Dt 6:5), và yêu mến người thân cận
như chính mình (Lev 19:18)." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng
lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
[2.2] Ai là người thân cận của tôi? Tuy Jericho cách Jerusalem khỏang
20 dặm nhưng độ cao khác biệt là 3,600 ft. Đây là đọan đường rất nguy hiểm vì lối
đi hẹp và có rất nhiều hang động, chỗ ẩn của trộm cướp. Rất ít ai dám đi một
mình trên quãng đường này. Người bị đánh trọng thương rất có thể là người
Do-Thái vì đi từ Jerusalem xuống. Chúa Giêsu liệt kê ra 3 lọai người và phản ứng
của họ khi nhìn thấy người bị thương:
(1) Thầy tư tế: là người Do-Thái. Lý do tại sao ông tránh có thể vì sợ sẽ
bị không sạch trong 7 ngày (Num 19:11) nếu động tay vào xác chết, và sẽ không
được phục vụ trong Đền Thờ. Ông đặt việc tế tự trên lòng thương xót khi ông
tránh qua bên kia mà đi.
(2) Thầy Lêvi: cũng là người Do-Thái. Nhiệm vụ của Levites là phục vụ
cung điện nơi Hòm Bia của Thiên Chúa ngự. Giống như thầy tư tế, ông có lẽ cũng
sợ bị không sạch, nên tuy cũng thấy người bị trọng thương, nhưng rồi cũng tránh
qua bên kia mà đi.
(3) Người Samaria xem người Do-Thái như thù địch và không muốn chung chạ
gì với họ. Nhưng khi thấy người bị trọng thương, người Samaria không để ý đến nạn
nhân là người Do-Thái hay không, ông chạnh lòng thương nạn nhân đau khổ: một niềm
thương xót giữa người với người.
Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng
bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.
Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn
sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn
lại bác."
[2.3] Chúa Giêsu hỏi thầy thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba
người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?
" Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót
đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy
làm như vậy."
--------------------------------------------------------------------------------
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải học hỏi thì mới có thể biết cái chân chính và cái giả
tạo; nếu không sẽ lầm lẫn đi trong bóng tối và dễ bị đánh lừa.
- Mến Chúa yêu người là phương thức để đạt được sự sống đời đời.
- Chúng ta không chỉ mến Chúa yêu người bằng miệng, nhưng phải thể hiện bằng
cuộc sống thờ phượng Thiên Chúa và thực hành các việc bác ái.
************
Viết bởi LM.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
************
copied from
loinhapthe.com
[SUY NIỆM]
Trả lờiXóaTrong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)
vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận:
“Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.
Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi ?”
Ngài đã trả lời bằng một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi.
Cả hai đều phản ứng như nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi (cc. 31-32).
Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi (21, 1-3) cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.
...
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org
...
Trả lờiXóaMột người Samari là nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân.
Hầu chắc nạn nhân này là một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào cho thấy anh ta là dân ngoại cả.
Giữa dân Do Thái và dân Samari vốn có mối hiềm thù từ lâu.
Người Samari này cũng thấy nạn nhân như hai người trước,
nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim mình, vì thế anh chạnh lòng thương (c. 33).
điều mà hai người trước không có.
Chính sự thúc đẩy của trái tim đã khiến anh làm một loạt hành động cụ thể:
lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần (cc. 34-35).
Lòng thương xót thật sự khiến anh chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.
Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù biết đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,
người Samari đã làm một phép lạ lớn.
Đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy, kẻ thù của mình, trở thành người thân cận với mình.
Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị này: “Theo ông,
trong ba người, ai đã trở nên người thân cận với kẻ bị nạn ?” (c. 36).
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người,
tôi không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó đang cần chúng ta.
Giúp đỡ cụ thể là cách tạo ra người thân cận
Càng giúp nhiều, ta càng có nhiều người bạn thân.
Vị luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu phải làm gì (c. 25).
Kể xong dụ ngôn, Đức Giêsu trả lời: Hãy đi và hãy làm như vậy (c. 37).
Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như chính mình, yêu cả những ai đã làm khổ mình.
Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org
[LỜI CẦU NGUYỆN]
Trả lờiXóaLạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org