------------ BÀI ĐỌC I ------------
Lời
Chúa trích sách Ngôn sứ Mi-kha
(1) Phần ngươi,
hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa,
từ nơi ngươi, Ta
sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.
Nguồn gốc của
Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa.
(2) Vì thế, Đức
Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con.
Bấy giờ những
anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en.
(3) Người sẽ dựa
vào quyền lực ĐỨC CHÚA, vào uy danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Người
mà đứng lên chăn
dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp,
vì bấy giờ quyền
lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất.
Người sẽ chiến
thắng Át-sua
(4) Chính Người
sẽ đem lại hoà bình. Khi Át-sua xâm nhập xứ sở
và giày đạp đất
nước chúng ta, chúng ta sẽ đặt bảy mục tử và tám thủ lãnh chống lại chúng. (Mk 5, 1-4a)
------------
PHÚC ÂM ------------
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu
(1) Đây là gia
phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:
(2) Ông
Áp-ra-ham sinh I-xa-ác; I-xa-ác sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em
ông này;
(3) Giu-đa ăn ở
với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác; Pe-rét sinh Khét-xơ-ron; Khét-xơ-ron sinh
A-ram;
(4) A-ram sinh
Am-mi-na-đáp; Am-mi-na-đáp sinh Nác-son; Nác-son sinh Xan-môn;
(5) Xan-môn lấy
Ra-kháp sinh Bô-át; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết; Ô-vết sinh Gie-sê;
(6) ông Gie-sê
sinh Đa-vít. Vua Đa-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn
(7) Sa-lô-môn
sinh Rơ-kháp-am; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia; A-vi-gia sinh A-xa;
(8) A-xa sinh
Giơ-hô-sa-phát; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram; Giô-ram sinh Út-di-gia;
(9) Út-di-gia
sinh Gio-tham; Gio-tham sinh A-khát; A-khát sinh Khít-ki-gia;
(10) Khít-ki-gia
sinh Mơ-na-se; Mơ-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-gia;
(11) Giô-si-gia
sinh Giơ-khon-gia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon.
(12) Sau thời
lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven;
(13) Dơ-rúp-ba-ven
sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do;
(14) A-do sinh
Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút;
(15) Ê-li-hút
sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp;
(16) Gia-cóp
sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
(18) Sau đây là
gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se.
Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa
Thánh Thần.
(19) Ông Giu-se,
chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà
cách kín đáo.
(20) Ông đang
toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng:
"Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì
người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
(21) Bà sẽ sinh
con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân
Người khỏi tội lỗi của họ."
(22) Tất cả sự
việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:
(23) Này đây,
Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 1, 1-16, 18-23)
--------------------------------------------------------------------------------
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế.
Vào năm 431,
Giáo Hội nhóm họp Công Đồng tại Thánh Đường Đức Mẹ Ma-ri-a tại Ephesus, để
tuyên bố tín điều "Đức Mẹ Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa." Lý do có tín điều
này vì giám-mục Nestorius của Constantinople, tuy công nhận Chúa Giê-su mang
hai bản tính: Thiên Chúa và nhân loại; nhưng vì bản tính nhân loại bị ảnh hưởng
bởi tội lỗi, nên Đức Mẹ chỉ là Mẹ Đức Kitô, chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm
nay tập trung trong việc tìm về nguồn gốc của Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, tiên-tri
Micah nói trước 700 năm về sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai: Ngài thuộc giòng tộc
của vua David; tuy sinh ra trong thời gian, nhưng Ngài có trước từ đời đời; và
tuy sinh ra trong thân phận con người, nhưng Ngài dùng uy danh của Thiên Chúa
mà cai trị nhân loại. Trong Phúc Âm, Matthew bắt đầu Tin Mừng với gia phả đầy đủ
của Đức Kitô, kéo dài cho tới vua David, tới tổ-phụ Abraham. Đức Kitô tuy sinh ra
trong gia phả con người; nhưng không theo cách thức con người, vì Mẹ Ma-ri-a
mang thai là bởi quyền năng của Thánh Thần.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
[1] Bài
đọc I: Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh
Israel.
[1.1] Lời tiên đoán của tiên-tri Micah về
Đấng Cứu Thế: Tiên-tri Micah sống khoảng 700 BC, nói về nơi xuất hiện của Đấng
Cứu Thế: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem Ephrathah, ngươi nhỏ bé nhất trong các
thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh
Israel." Bethlehem là chỗ sinh trưởng của vua David, cách khoảng 7 km về
phía Nam của Jerusalem. Vua David thuộc chi tộc Judah. Ephrathite là một thị tộc
nhỏ bé nhất của chi tộc Judah, thị tộc này định cư ở Ephrathah.
Tiên-tri Micah
tiên đoán Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong tương lai; "nhưng nguồn gốc của
Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa." Gioan Tẩy Giả cũng tuyên bố về Đấng
Cứu Thế như sau: "Người đến sau tôi; nhưng có trước tôi" (Jn 1:15). Cả
hai đều có ý muốn nói về Đấng Cứu Thế như sau: xét về nguồn gốc, Đấng Cứu Thế
hiện hữu trước; nhưng xét về thời gian sinh ra, Ngài có sau. Trong Tin Mừng
Matthew, khi ba nhà đạo sĩ từ phương Đông mất ánh sao dẫn đường, họ vào
Jerusalem để hỏi về nơi sinh của vua dân Do-thái. Nhà vua cho triệu tập các thượng
tế và kinh sư để tra cứu về nơi sinh của Đấng Cứu Thế, và họ tìm ra tại
Bethlehem, xứ Judah, theo lời của tiên tri Micah đã viết (Mt 2:5-6).
[1.2] Uy quyền của Đấng Cứu Thế: Tuy
sinh ra như một con người; nhưng "Ngài sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào
uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người, mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an
cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất."
Những gì
tiên-tri Micah tiên đoán về triều đại của Đấng Cứu Thế đều được hoàn tất bởi Đức
Kitô. Ngài được Chúa Cha ban cho mọi quyền hành trên trời cũng như dưới đất; và
Ngài dùng quyền này để
khống chế ma quỉ, sóng gió, chữa lành mọi bệnh tật, và tiêu diệt kẻ thù cuối
cùng của con người là sự chết. Sau đó, Ngài sẽ lên ngôi cai trị, dân chúng sẽ
được mọi sự lành bằng an, và triều đại của Ngài sẽ kéo dài đến vô tận.
[2] Phúc
Âm: Đây là gia phả Đức Giê-su Kitô, con vua David, con tổ phụ Abraham.
[2.1] Sự quan trọng của gia phả: Truyền
thống Do-thái đề cao sự quan trọng của gia phả. Trong Cựu Ước, chúng ta gặp nhiều
lần những đề cập đến gia phả (x/c Gen 5:1, 10:1, 11:10, 27). Sở dĩ người
Do-thái quan trọng hóa gia phả là vì họ muốn xem ai thuộc giòng tộc hoàn hảo nhất,
không bị ảnh hưởng bởi giòng máu ngoại lai. Khi một người bị quá nhiều giòng
máu ngoại lai, người ấy có thể bị mất đặc quyền được gọi là người Do-thái, Dân
Riêng của Thiên Chúa. Một thầy tư tế phải chứng minh mình thuộc giòng tộc của
Aaron; và nếu thầy tư tế đó kết hôn, người đàn bà đó phải có gia phả rõ ràng,
ít nhất là năm đời. Khi Ezra thành lập hàng tư tế sau khi từ chốn lưu đày trở về,
ông đã từ chối chức tư tế của: con cái của Habaiah, con cái của Koz, và con cái
của Barzillai; vì ông không tìm thấy gia phả của họ trong Thượng Hội Đồng (x/c
Ezra 2:62).
[2.2] Những điều quan trọng tìm thấy trong
gia phả của Đức Kitô: Gia phả của Ngài được chia làm 3 giai đoạn chính, mỗi
giai đoạn gồm 14 đời:
(1) Từ tổ-phụ
Abraham tới vua David: Thời của tổ-phụ Abraham đánh dấu việc Thiên Chúa chọn
dân tộc Israel và hứa sẽ ban cho ông con cháu đông đúc và dẫn vào Đất Hứa. Thời
của vua David đánh dấu sự lớn mạnh của vương quốc Israel. Đây là thời đại hoàng
kim của Israel, vì vua David đã thống nhất 12 chi tộc Israel, mở rộng bờ cõi và
lên ngôi cai trị họ. Danh xưng của Chúa Giê-su là "Con vua David" đã
được nhắc tới 58 lần bởi các nhân vật khác nhau trong Tân Ước, chứng tỏ người
Do-thái rất quan tâm đến gia phả của Đức Kitô. Họ chờ đợi Đấng Thiên Sai, xuất
thân từ giòng dõi vua David, sẽ đến giải phóng họ khỏi tay quân thù, và lên
ngôi cai trị muôn đời.
(2) Từ vua David
tới Thời Lưu Đày bên Babylon: Sau thời của David, vương quốc Israel bắt đầu xuống
dốc: bắt đầu bằng việc chia đôi đất nước, chạy theo vua chúa và các thần ngoại
bang, vương quốc miền Bắc bị rơi vào tay của vua Assyria năm 721 BC, vương quốc
miền Nam bị rơi vào tay của vua Babylon năm 587 BC. Từ vua quan đến dân chúng đều
bị dẫn đi lưu đày trong vòng 50 năm cho đến năm 538 BC, khi vua Ba-tư là Cyrus
nghe lời Thiên Chúa phóng thích cho dân Do-thái được hồi hương.
(3) Từ Thời Lưu
Đày bên Babylon đến Đức Kitô: Đây được coi là thời gian hy vọng vào Đấng Thiên
Sai, mà nhiều ngôn sứ loan báo, sẽ đến. Ezra và Nehemiah lãnh đạo việc xây dựng
lại Đền Thờ và khôi phục đất nước. Phần lớn người Do-thái chỉ quan tâm đến việc
giải phóng đất nước khỏi tay quân thù; vì thế, họ chờ đợi một Đấng Thiên Sai uy
quyền, sẽ dùng sức mạnh và quyền năng để tiêu diệt quân thù, và khôi phục địa vị
cho vương quốc Israel như thời vua David.
[2.3] Thời đại của Đức Kitô, Đấng cứu Thế:
Theo gia phả con người, Chúa Giê-su là con ông Giuse và bà Ma-ri-a. Ông Giuse
là con vua David và Chúa Giê-su cũng sinh ra tại Bethlehem, nơi mà vua David đã
sinh ra. Trình thuật Matthew nói rõ Ma-ri-a có thai là "do quyền năng Chúa
Thánh Thần." Khi thấy Ma-ri-a có thai trước khi hai ông bà về chung sống;
ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định
tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến
báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con vua David, đừng ngại đón bà Ma-ri-a
vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ
sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su."
+ Chính Chúa Giê-su
sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ: Ngược lại với lòng mong muốn của đa số
dân Do-thái về một Đấng Thiên sai uy quyền, sẽ đến giải phóng dân khỏi ách nô lệ
của ngoại bang; Đức Kitô chấp nhận thân phận của một Đấng Thiên Sai đau khổ: chịu
chết trên Thập Giá, để giải thoát toàn dân khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết.
+ Tất cả sự việc
này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaiah:
"Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi
tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Isa
7:14). Bản Bảy Mươi dùng chữ "pathernon" để chỉ "trinh-nữ;"
trong khi Bản MT, dùng chữ "almah:" có thể là một người phụ nữ trẻ
hay một người đồng trinh. Truyền thống Công Giáo dùng cả Isa 7:14 và Mt 1:18 để
xác tín: Mẹ Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.
--------------------------------------------------------------------------------
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải
tin các tín điều đã được nghiên cứu cẩn thận và được tuyên bố bởi Giáo Hội qua
các Công Đồng. Đừng để các lạc thuyết mê hoặc chúng ta.
- Thiên Chúa đã
chuẩn bị cho nhân loại ngay từ đầu một Kế Hoạch Cứu Độ. Theo kế hoạch này, Đức
Kitô sẽ đến trong thân xác con người để chuộc tội cho con người.
************
Viết bởi LM.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
************
copied from
loinhapthe.com
[LỜI CẦU NGUYỆN]
Trả lờiXóaLạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org