------------ BÀI ĐỌC I ------------
Lời
Chúa trích trong thư thứ nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ gởi tín hữu Cô-rin-tô
(12) Thật vậy,
ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận
của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Ðức Ki-tô cũng vậy.
(13) Thật thế, tất
cả chúng ta, là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép
rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy
tràn một Thần Khí duy nhất.
(14) Thật vậy,
thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi.
(27) Vậy anh em,
anh em là thân thể Ðức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.
(28) Trong Hội
Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Ðồ, thứ hai là các
ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được
những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ
tiếng lạ.
(29) Chẳng lẽ ai
cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ
ai cũng được ơn làm phép lạ,
(30) ai cũng được
ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được
các tiếng lạ sao?
(31) Trong các
ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng
đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả. (I Cor 12, 12-14, 27-31)
------------
PHÚC ÂM ------------
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca
(11) Sau đó, Ðức
Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám người rất đông
cùng đi với Người.
(12) Khi Ðức Giê-su
đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là
con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có đám rất đông người trong
thành cùng đi với bà.
(13) Trông thấy
bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà đừng khóc nữa!"
(14) Rồi Người lại
gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Ðức Giê-su nói: "Này người
thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!"
(15) Người chết
liền ngồi lên và bắt đầu nói. Ðức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.
(16) Mọi người đều
kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện
giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người".
(17) Lời này được
đồn ra trong khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận. (Lc 7, 11-17)
--------------------------------------------------------------------------------
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiệp nhất trong khác biệt.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
[1] Bài
đọc I: Thần học về thân thể của thánh Phaolô.
[1.1] Nhiều chi thể khác nhau nhưng
trong cùng một Thân Thể là Đức Ki-tô:
Thánh Phaolô
dùng hình ảnh thân thể con người với những chi thể khác nhau để áp dụng cho
thân thể của Chúa với những chi thể khác nhau là các tín hữu: “Thật vậy, ví như
thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của
thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy.” Trong một
thân thể, không có chi thể nào hèn kém đến độ thân thể không cần đến; nhiều khi
những chi thể xem ra nhỏ bé yếu đuối hay hèn kém lại càng cần thiết hơn. Cũng vậy,
“Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã
chịu phép Rửa trong cùng một Thánh Thần để trở nên một thân thể.” Trong Chúa Ki-tô,
không có một cá nhân nào hèn kém đến độ bị loại trừ ra ngoài. Tất cả các hàng
rào ngăn cách con người với nhau ngoài xã hội như ngôn ngữ, giai cấp, tài năng…
phải bị dẹp bỏ để mọi người trở thành anh chị em với nhau.
Chúng ta đã thấy
thánh Phaolô áp dụng thần học thân thể này cho rất nhiều lãnh vực, chẳng hạn việc
có nên ăn thịt cúng. Ngài trả lời cứ việc ăn mà không cần phải hỏi han lôi
thôi; nhưng nếu việc ăn thịt cúng làm cho một tín hữu mất đức tin thì ngài sẽ
không ăn, vì tín hữu này đã được Chúa Giê-su đổ máu ra để chuộc tội. Hay hôm
qua khi bàn về Bữa Tiệc Tình Yêu, ngài nói: Tất cả những ai ăn Bánh và uống Rượu
- là ăn chính Mình và uống Máu Chúa - đều trở nên một Thân Thể và được thông phần
vào chính sự sống của Đức Ki-tô, nhờ Máu của Ngài. Vì thế, tất cả phải ăn uống
làm sao để đừng ăn uống án phạt mình qua việc phân chia giai cấp giữa người giầu
và kẻ nghèo.
[1.2] Nhiều sứ vụ khác nhau nhưng được
trao ban bởi cùng một Thánh Thần:
Một áp dụng khác
về thần học thân thể là mỗi người tín hữu được Thiên Chúa trao một sứ vụ khác
nhau: tông đồ, tiên tri, thầy dạy, làm phép lạ, chữa lành, quản trị, người luôn
giúp đỡ, hay nói tiếng lạ. Tất cả các sứ vụ đều nhằm một mục đích là để xây dựng
nhiệm thể của Đức Ki-tô.
Con người thường
có khuynh hướng quan trọng hóa sứ vụ của mình và khinh thường sứ vụ của những
người khác. Họ nghĩ chỉ có sứ vụ của họ mới cần thiết còn những sứ vụ khác kém
quan trọng hơn hay không cần thiết. Thánh Phaolô dùng hình ảnh của thân thể để
bác bỏ quan niệm này. Ngài nói tất cả các chi thể đều quan trọng cho việc gìn
giữ thân thể khỏe mạnh. Mắt không thể bảo tay “Tao không cần đến mày;” đầu cũng
không thể bảo hai chân “Tao không cần đến chúng mày.” Hơn nữa, tất cả các sứ vụ
được ủy thác cho mỗi người bởi cùng một Thánh Thần. Ngài không những biết khả
năng của mỗi người mà biết Nhiệm Thể Chúa Ki-tô cần gì để phát triển, nên sắp xếp
sứ vụ và ban ơn cần thiết để mỗi người có thể chu toàn sứ vụ của mình.
Một khuynh hướng
khác là muốn làm những gì xem ra được coi là quan trọng theo tiêu chuẩn của thế
gian; chẳng hạn khuynh hướng thích làm lớn và nói tiếng lạ nơi cộng đoàn
Corintô. Trong Phúc Âm không thiếu những người có khuynh hướng này như Mẹ của
hai ông Giacôbê và Gioan đem hai con đến xin Chúa ban cho một đứa ngồi bên tả
và một đứa ngồi bên hữu trong vương quốc của Chúa. Chúa sửa dạy các ông: “Ai muốn
làm lớn giữa an hem thì phải làm người phục vụ an hem. Và ai muốn làm đầu an
hem thì phải làm đầy tớ anh em.”
[2] Phúc
Âm: Chúa động lòng thương và cho con trai duy nhất của Bà mẹ Na-in sống lại.
Đứng trước cái
chết con người hoàn toàn bất lực và hoảng sợ khi phải đương đầu với cái chết,
nhất là những cái chết trẻ, nhiều người, và đột ngột. Như Bà mẹ Na-in hôm nay,
Bà đã góa chồng và chỉ có một con duy nhất là niềm hy vọng để nâng đỡ Bà trong
cuộc sống trên dương gian; thế mà anh cũng vĩnh viễn ra đi. Chắc Bà không bao
giờ nghĩ là Bà sẽ phải chôn con.
Người Hy-Lạp, nhất
là những người theo chủ thuyết Khắc Kỷ, họ tin có Đấng Tối Cao; nhưng không tin
Ngài có cảm xúc trước những đau khổ của con người. Họ lý luận: Nếu con người có
thể làm cho Ngài vui hay buồn, tức là con người có ảnh hưởng trên Ngài; khi con
người có ảnh hưởng trên Ngài là con người lớn hơn Ngài; nhưng không ai có thể lớn
hơn Đấng Tối cao. Vì vậy, Đấng Tối Cao phải là Đấng không có cảm xúc. Niềm tin
này hoàn toàn ngược lại với niềm tin của người Công Giáo, Thiên Chúa cảm thương
với nỗi đau khổ của con người. Thánh Luca tường thuật Chúa Giê-su chạnh lòng
thương Bà mẹ góa chỉ có đứa con côi mà giờ đây cũng không còn nữa, Ngài an ủi:
"Bà đừng khóc nữa!" Trước khi cho Lazarus sống lại, Gioan tường thuật
“Chúa khóc” (Jn 11:35) và “Chúa thổn thức trong lòng” (Jn 11:38).
Thiên Chúa có thể
làm cho kẻ chết sống lại. Trong Cựu Ước, chỉ có tiên tri Elisha làm cho con
trai của Bà góa miền Shunem sống lại bằng cách kề miệng ông trên miệng nó (2
Kgs 4:34-37). Trong Phúc Âm, có ít nhất 3 lần Chúa làm cho kẻ chết sống lại:
Cho con gái của ông trưởng hội đường Giaia sống lại (Mt 9:18-26, Mc 5:35-43, Lk
8:40-56); Chúa Giê-su làm cho anh thanh niên sống lại và trao anh lại cho bà mẹ
Na-in hôm nay (Lk 7:11-17); và Chúa cho Lazarus chết 3 ngày được sống lại (Jn
11:38-44). Khi chứng kiến quyền năng của Thiên Chúa cho kẻ chết sống lại, con
người kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện
giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người."
--------------------------------------------------------------------------------
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hình ảnh những
chi thể khác nhau của một thân thể sẽ giúp chúng ta giải quyết nhiều những vấn
đề trong cuộc sống: tham quyền hành, ghen tương, bè đảng, khai trừ nhau… Mỗi
người chúng ta đều có chỗ đứng trong tòa nhà của Thiên Chúa và đều được Thánh
Thần trao cho một sứ vụ để xây dựng tòa nhà này.
- Thiên Chúa có
quyền trên sự chết và Ngài quan tâm đến những đau khổ của kiếp người. Những điều
này là hy vọng cho cuộc đời chúng ta vì biết rằng những đau khổ có ý nghĩa và sự
chết chỉ là tạm thời. Nếu chúng ta kiên trì vượt qua đau khổ, chúng ta sẽ cùng
sống lại và chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa.
************
Viết bởi LM.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
************
copied from
loinhapthe.com
[SUY NIỆM]
Trả lờiXóaThánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org
[LỜI CẦU NGUYỆN]
Trả lờiXóaLạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người. Amen.
************
Viết bởi LM. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
************
copied from hdgmvietnam.org